Những ai đã từng sống ở Sài Gòn chắc
cũng từng quen thuộc với câu cửa miệng “chiện nhỏ” (phát âm đúng theo dzọng Sài
Gòn là “chiện” chứ không phải là “chuyện”)
Đây là một bộ sưu tầm những chiện lặt
vặt về người Sài Gòn, cách cư xử của người Sài Gòn. Những bác nào không
phải người Sài gòn thì đọc để hiểu thêm về người Sài gòn nhé.
Đọc để thấy cuộc sống vẫn còn nhiều
đều tốt đẹp.
Chuyện 1.
Đó
là một con hẻm khá rộng rãi ở giữa nhưng hai đầu thì nhỏ xíu, chỉ chạy lọt chiếc
xe máy, nối hai trục đường chính ở quận 3. Trong hẻm nhà cửa san sát, nhà mới
xây cao 3~4 tầng cũng nhiều mà nhà cũ, mái tole gác gỗ cũng sin sít, nhiều nhà
dùng phía trước để buôn bán nhỏ, bán đồ ăn hoặc tạp hóa, nhiều nhà mở tiệm gội
đầu hoặc đặt biển công ty mà chẳng có nhân viên. Dân cư trong hẻm hầu hết đều
biết nhau, cũng có một vài người mới dọn tới hoặc thuê nhà trong hẻm nhưng họ
nhanh chóng làm quen với cư dân hẻm.
Bà
chủ nhà trọ của tôi được gọi là cư dân lâu đời nhất của hẻm, hơn 60 năm. Bà là
người cất nhà đầu tiên trên đất này. Bà kể, lúc bà vô Sài Gòn năm 16 tuổi, cả
nhà bà đi trên một cái ghe. Lúc đó hẻm này, từ đầu đến cuối, là một con rạch rộng
và sâu, bơi chừng vài chục sải mới sang bờ, tuy thông với nhiều rạch khác nhưng
nước ở rạch này lại trong veo, đáy toàn cát. Bờ bên này, chỗ nhà trọ tôi ở, là
một cái bến thuyền tấp nập suốt ngày đêm. Cha của bà đã dựng cái chòi đầu tiên
trên bến, đúng chính chỗ căn nhà bây giờ, lúc đó ban đêm gió từ những con rạch
thổi lồng lộng đến nỗi muốn cuốn bay mọi thứ.
Có
nhiều sông rạch, nhiều đầm lác, nhiều rừng dừa nước đã biến mất, nhường chỗ cho
phố xá và những con hẻm đầy nhà, đầy người, ở Sài Gòn.
Chuyện 2.
Ở
một showroom sang trọng của một hãng xe hơi nổi tiếng mà giá của một chiếc xe nằm
ngoài khả năng đếm của nhiều người, vào một buổi trưa trời nắng gắt bên ngoài
nhưng bên trong vách kính thì mát lạnh. Anh nhân viên bán hàng mặc đồ vest với
cà vạt và dày da bóng lộn đang ngồi xem tivi.
Có
một cụ ông đi bộ ngoài đường mở cửa vào showroom. Trông ông có vẻ không được
khá giả lắm, tuy cũng vận áo sơ mi ngắn tay cũ và một chiếc quần khaki ngả màu.
Ông cụ bước vào, đảo mắt nhìn một lượt rồi chắp tay sau lưng đi đến những chiếc
xe trưng bày và bắt đầu xem xét. Anh nhân viên bán hàng bật dậy đi theo cụ, anh
đi nhẹ nhàng và tỏ vẻ lịch sự. Anh gọi cụ là ngoại. Ngoại ơi, ngoại à. Mỗi lần
cụ dừng lại ở một chi tiết anh lại đề nghị được cho cụ xem rõ hơn, anh mở cửa
trước, cửa sau, mở nắp capo để cho cụ xem. Khi cụ tỏ ý thắc mắc thì anh lại nhẹ
nhàng giải thích với cụ, cụ già cứ gật gù lắng nghe nhưng có vẻ không hiểu mấy.
Đi
chán cũng mỏi, anh bán hàng mời cụ già lại chỗ sofa có cái bàn kiếng sạch bóng
và mời cụ dùng café, loại café đá pha sẵn thôi. Mãi sau cụ già nói với anh: qua
thấy chỗ bán xe hơi này sang trọng quá, lại có máy lạnh nên qua vô xem chơi, chứ
xe này cả dòng họ qua gom tiền lại cũng mua không nổi. Anh nhân viên vẫn rất lịch
sự: dạ con biết, sẵn ngoại vô chơi thì con giới thiệu luôn để ngoại coi xe, đâu
phải ai vô coi xe cũng mua đâu ngoại. Anh cười, coi bộ hiền khô.
Chuyện 3.
Một
góc ngã tư giao lộ giữa hay con đường thuộc loại đông nhất nhì Sài Gòn, nơi thường
xuyên bị kẹt xe, nhất là vào giờ cao điểm. Bên cảnh sát giao thông phân công
hai anh sĩ quan đến trực ở ngã tư này để giải quyết nạn ùn tắc và xử phạt mấy
phương tiên chạy ẩu, nhất là mấy chiếc xe hơi rẽ trái sai luật.
Hai
anh sĩ quan này có lẽ thuộc loại vất vả nhất trong ngành vì thời gian của hai
anh hầu hết đều phải đứng ngoài nắng ngoài mưa để phân luồng và điều chỉnh đèn
tín hiệu, chỉ cần hai anh vắng bóng một lúc là cái ngã tư lại nùi nùi một mớ xe
cộ.
Chỗ
hai anh đứng có một cái tủ điện chìm, lúc nào cũng có nước uống. Sáng thì café,
nắng lên thì trà đá, chiều thì có nước đá chanh… Mỗi khi uống hết nước thì anh
sĩ quan trẻ hơn băng qua đường đem trả những cái ly cho một quán cóc gần đó.
Quán cóc vỉa hè nhưng lúc nào cũng có khách ngồi.
Lát
sau bà chủ quán lại bưng qua một món thức uống mới, đúng lúc tôi đứng gần đó.
Anh sĩ quan lớn tuổi hơn quay qua nói, hình như cốt để cho tôi nghe: bà này bả
cho tụi tôi uống nước miễn phí cả tháng nay, nói hoài mà hông chịu cầm tiền,
mơi không uống nữa nghen bà. Bà già cười lớn, ha hả, mấy chú làm việc cực khổ,
tui đãi miếng nước, chuyện nhỏ xíu mà, mấy chú uống cho tui dzui.
Chuyện 4.
Dạo
này Sài Gòn trời nắng gắt, đi ngoài đường hay thấy mấy thùng ghi “trà đá miễn
phí”, ai muốn uống thì uống, dân xe ôm, xích lô là khoái dữ lắm, ghé uống ừng ực
rồi cứ vậy đi, không cần phải cảm ơn.
Một
lần ông xe ôm chở tôi xin phép tấp vô lê uống ly trà đá, tôi mới biết là có trà
đá miễn phí. Đó là thùng trà đá miễn phí tôi thấy đầu tiên, nó ở gần bệnh viện
115, mặc dù nó không có bảng ghi “miễn phí”, chỉ thấy một thùng trà đá để ngoài
đường, ai qua lại nếu biết cứ tự động rót mà uống. Uống hết có người ra châm
trà, châm nước, bỏ đá vô.
Tôi
hỏi ông xe ôm, trà đá miễn phí kiểu vầy có nhiều không chú. Ổng nói cũng nhiều,
tùy mình biết chỗ mà ghé uống, trời nắng vầy có ly trà đã cũng đã lắm chú. Tui
không phải nghèo đến mức cần phải uống trà đá miễn phí, tui uống bị thấy khoái
vậy thôi.
Chuyện 5.
“Bây
giờ cầm tờ báo lên là rầu, hết muốn coi báo” – Câu này của một đại gia Sài Gòn.
Đại gia này có lẽ đã về hưu, con cái đã thành đạt lấy vợ lấy chồng ở riêng hết.
Đại gia này thường hay ngồi ở quán café cóc của bà già ở mẩu chuyện số 3. Sáng
nào cũng có mặt, dù nắng hay mưa.
Sáng
nào đại gia cũng mua báo, chắc chắn là có Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người Lao Động,
Công An, Pháp Luật… thỉnh thoảng mua tờ tạp chí hoặc nguyệt san. Đại gia chỉ
mua báo của hai người, một con bé và một thằng bé quen, bữa đứa này bữa sau đứa
kia. Hai đứa trẻ bán báo không bao giờ cạnh tranh nhau quyết liệt hoặc tỏ ra
giành mối, chúng vui vẻ cùng phục vụ một vị khách hàng. Đại gia mua rất nhiều
nhật báo nhưng lúc ra về chỉ đi tay không.
Sau
này, khi có dịp ngồi ở quán café cóc đó suốt một buổi sáng tôi mới biết. Nếu
hôm đó đại gia mua báo của thằng bé, sau khi đọc xong ông sẽ gấp tờ báo lại như
cũ và đem cho con bé đi bán tiếp và ngược lại, nếu mua của con bé thì ông sẽ
đem cho thằng bé để nó đi bán cho người khác, tiền thì ông vẫn trả đủ.
Chuyện
6.
“Cho nhiêu cũng
được” – Câu này ai ở Sài Gòn chắc là biết, chắc thỉnh thoảng có nghe, nhất là
khi đi taxi, xe ôm, xích lô… nếu là khách đi quen rồi hoặc quãng đường gần quá
khó trả giá thì bác tài sẽ nói vậy: chú (cô) cho nhiêu cũng được. Nói vậy chứ
ai đành lòng cho ít, ví như đúng ra bảy ngàn thì khách sẽ đưa mười ngàn cho chẵn
tiền.
Đó cũng không hẳn
vì ít tiền quá mà nói vậy, cũng có khi nhiều thứ giá trị hơn người bán cũng
nói: cho nhiêu cũng được. ví dụ như chuyện có cô giáo nọ dạy văn ở một trường cấp
hai, cô nổi tiếng là thương học trò như con. Mỗi buổi sáng cô hay đi chợ ở gần
nhà để tiện việc cơm nước. Trong chợ có rất nhiều người biết cô là cô giáo, và
họ thường gọi luôn là “cô giáo”. Nhiều khi cô giáo cũng khó xử với các bà, các
chị trong chợ, họ cứ bỏ vô giỏ cô khi thì con cá, khi thì bó rau, khi thì ký thịt…
khi cô đòi trả tiền thì họ không chịu lấy hoặc nói: cô giáo cho nhiêu cũng được.
Cho nhiêu cũng
được
Chuyện
7.
Ông là thương
binh, thương binh của chế độ cũ, ông bị thương gần ngày Sài Gòn giải phóng. Sau
giải phóng ông làm nhiều nghề để sinh sống và để nuôi ba đứa con ăn học. Một lần
nọ ông làm công việc bảo vệ ở một nhà hàng vào buổi tối, đó là một nhà hàng lớn
và có rất nhiều nhân viên và thực chất công việc của ông là chuyên đắt xe cho
khách đến ăn nhậu mà thôi. Chủ nhà hàng là một người đàn ông khá giả và cư xử rất
được.
Một hôm có chuyện.
Đêm khuya khi nhà hàng chuẩn bị đóng của và người chủ cũng chuẩn bị ra về thì
có một nhóm người hung dữ cầm mã tấu xông vào nhà hàng truy sát người chủ. Người
đàn ông tuy khá cao to và nhanh nhẹn nhưng khó có thể chống cự với bốn năm tên
sát thủ chuyên nghiệp, tất cả mọi người bỏ chạy tán loạn. Ông thấy vậy không được
nên đứng ra bảo vệ chủ mình, vừa đỡ đòn vừa dìu anh này bỏ chạy. Nhờ sự giúp sức
của ông, nạn nhân đã thoát thân tuy cũng bị thương nhẹ, còn ông thì bị hai nhát
chém nặng mà một nhát sau này đã làm ông không thể cử động cánh tay phải.
Người chủ mang
ơn ông lắm dù ông nhiều lần nói “chú ơi, tôi làm công cho chú thì phải bảo vệ
chú thôi, ơn nghĩa gì mà chú cứ nói hoài”. Và mặc dù ông đã nhiều lần từ chối
nhưng người chủ nhà hàng vẫn mua cho ông một căn nhà nhỏ, chu cấp hằng tháng đủ
nuôi cả gia đình ông và cho tiền ba đứa con ông ăn học.
Chuyện xảy ra đã
lâu rồi. Hôm qua tôi ngồi trong ngân hàng, ngồi kế bên cậu con trai lớn của ông
và được nghe câu chuyện này. Cậu nói: chú đó sắp đi Mỹ rồi nên bữa nay chú kêu
con ra ngân hàng mở tài khoản để mai mốt chú chuyển tiền về.
Chuyện
8.
Chuyện này nghe
một bạn sinh viên kể. Bạn nói trước nhà bạn nghèo lắm, mẹ bạn bán vé số ở Quận
Tám và bạn cũng đi bán phụ mẹ. Nếu bạn học buổi sáng thì sẽ phụ mẹ bán buổi chiều
và ngược lại, nhà chỉ có hai mẹ con.
Có một chú thợ hồ
ở gần nhà, nói là gần nhà chứ thực ra là ở một cái chòi trong xóm hẻm sâu sát bờ
kinh, chú này mỗi khi nhậu thường hay mua vé số của hai mẹ con cậu. Chú này mua
không nhiều, mỗi lần chỉ mua hai vé, nhưng điều đáng nhớ là sau khi trả tiền
hai vé thì chú sẽ cho lại cậu một vé, và lúc nào cũng căn dặn: nhớ giữ lại hen
mầy, phải thì cùng đổi đời.
Và cậu đổi đời
thiệt, một lần cặp vé số định mệnh đã trúng giải độc đắc. Người vợ của chú thợ
hồ khi biết chồng mình trúng số độc đắc đã nổi lòng tham và muốn đòi lại tờ vé
số mà chú đã cho cậu buổi chiều trước đó. Nhưng chú thợ hồ đã kiên quyết không
đòi lại, chú còn dùng tiền trúng số đã cả xóm một bữa nhậu linh đình.
Có vốn, mẹ cậu
không bán vé số nữa mà chuyển ra mở quán ăn sáng và cuộc sống của hai mẹ con đã
khá hơn trước rất nhiều. Chỉ riêng chú thợ hồ thì vẫn làm thợ hồ, bây giờ chú
mua vé số của người khác nhưng tật cũ vẫn không bỏ, mua hai vé và cho lại người
bán một vé. Chú luôn dặn: nhớ giữ lại hen mầy, phải thì cùng đổi đời.
Chuyện
9.
Ông chạy xe ôm ở
Quận 10 nhưng nhà ông thì ở tận ngã tư An Sương, vợ ông thì bán vé số nên ông
thường đậu xe kế bên bà. Hai người mang cơm theo ăn buổi sáng và buổi trưa, buổi
chiều thì trả vé về sớm rồi cùng ăn ở nhà.
Quê ông bà ở Cần
Giuộc. Bữa nọ thấy có người trông dáng như ở quê lên, tới ghé cho ông bà hai
con gà, một buồng chuối và một giỏ đệm đầy cá trê phi, con nào con nấy mập ú,
vàng óng. Tôi tò mò hỏi: bà con dưới quê gửi lên hả chú? Ông cười, nói đúng ở
quê gửi lên nhưng mà hông phải của bà con, thằng đó nó chiếm đất của tui đó chớ.
Nhà ông có nhiều
anh em, cha ông có chia cho ông ba công ruộng ở quê. Ruộng đất phèn nên một năm
chỉ trồng được một vụ mà lại có mùa trúng mùa thất nên ông bỏ đó lên Sài Gòn chạy
xe ôm. Ruộng bỏ hoang lại nằm xa xóm nên không ai coi. Một lần ông về quê và
phát hiện ruộng của mình có người chiếm mất. Đó là một gia đình nghèo, hai vợ
chồng và bốn đứa con nheo nhóc, trước họ sống theo ghe nhưng cái ghe nát quá
nên cả gia đình dắt nhau lên bờ kiếm đất hoang lập nghiệp, cũng bị đuổi cùng đường
mới tới đây.
Mới đầu ông cũng
làm căng, thưa lên xã rồi nhờ bà con tới đòi kịch liệt lắm, nhưng do đất nhà từ
xưa không có giấy tờ, lúc chia cũng không lập di chúc nên khó nói lý. Rồi ông
phát hiện bà vợ mình bị tiểu đường nặng nên thời gian của ông chủ yếu ở bên bà,
ông không thiết đòi đất nữa.
Một lần về quê
đám giỗ ông đã ký giấy cho gia đình nghèo nọ ba công đất luôn.
Ông nói, mình
cũng nghèo mà thấy tụi nó còn nghèo hơn. Mình già rồi, sống nay chết mai, thôi
coi như làm phước cho tụi nó. Cũng được cái là vợ chồng nó cũng biết điều, nhận
tía má luôn, đem lên cho đồ hoài, ăn hổng hết.
Chuyện
10.
Sài Gòn rộng, rộng
lắm, nên chuyện ở Sài Gòn người ta hay kêu là: “chiện nhỏ”.
Bùi Cát Vàng
sưu tầm