Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

NGỰA -


NĂM GIÁP NGỌ
TẢN MẠN VỀ NGỰA

Ngày xưa, con người Âu Á rất tôn trọng con ngựa nên từ gọi “chiến mã” ngang hàng với “chiến binh”. Trong văn học cũng đem nó lên ngang hàng với con người, thành ngữ “Anh hùng mã thượng” tương ứng với từ “chevaleresque” của tiếng Pháp một cách thú vị, trong tĩnh từ nầy có từ gốc “cheval” là ngựa hay “ mã” ....Tuy nhiên nếu tiếng Pháp gọi ngựa cái là jument thì người Pháp cũng có một từ khác gọi ngựa cái là cavale. Từ nầy ít khi dùng vì nó có nghĩa xấu lắm khi tương đương với từ Việt Nam gọi “đồ ngựa cái”.

Trong văn học Trung Hoa cũng đề cao con ngựa trong vai trò của nó và tinh thần của nó. Chẳng hạn “Anh hùng mã thượng”, “Mã đáo thành công”, “Thất mã truy phong”, cũng như câu chuyện dạy đời “Tái Ông thất mã”. Một người thẳng thắng, phải thì nói phải, sai thì nói không e dè, không kiêng nể gọi là “Thẳng ruột ngựa”. Trước khi nói, phải uốn lưỡi bảy lần, bỡi vì nếu lỡ lời nói sai không chuộc lỗi được vì có câu: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy’ một lời lỡ nói ra rồi, bảy ngựa đuổi theo không kịp. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu có nghĩa gần giống với “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Chốn phồn hoa đô hội đông đảo người ta, xe cộ dập dều... nên có cảnh “Ngựa xe như nước....”. Trẻ tuổi mà không tự biết, chưa có kinh nghiệm mà háo thắng người ta cho là “Ngựa con háu đá”. Người Pháp khi cấp huân chương thường dùng những từ nguồn gốc vinh dự từ ngựa. Chẳng hạnChevalier de la Légion d’honneur – một huân chương cao quí nhất của Pháp – tức là Bắc đẩu Bội tinh. Người Anh cũng vậy, các nhà Vua Anh có lệ phong Hiệp sĩ cho những anh tài của đất nước: Cavalier (knight).

Việt Nam ta cũng vinh danh ngựa qua thành ngữ “Da ngựa bọc thây” do thành ngữ “Mã cách lý thi” của Trung Hoa, “Ngựa quen đường cũ”, “Một con ngựa bịnh cả tàu không ăn cỏ” v.v...

Lịch sử nước ta cũng như các nước khác khi nhắc lại các chiến công hiển hách của những anh hùng vào sinh ra tử trong chiến trường không quên nhắc đến ngựa. Chẳng hạn nói đến Phù Đổng Thiên Vương là ta nghĩ ngay đến roi đồng, ngựa sắt. Còn ở Pháp, tượng đồng của nữ anh thư Pháp Jeanne d’ Arc chống quân Anh xâm lược, cầm cờ ngồi trên lưng ngựa. Đến Paris ta bắt gặp hàng chục tượng của vua Louis XIV hầu hết đều cỡi ngựa, đặt trên những bệ đá uy nghi ở trước điện Louvre, điện Versailles, Công trường Chiến thắng v.v...Ở điện Versailles cũng như điện Maltes và nhiều điện khác ta thấy tượng của bầy ngựa tung hoành dưới làn nước. Sang Trung Hoa, nơi lăng tẩm Tần Thuỷ Hoàng không biết bao nhiêu là tượng chiến binh cùng với chiến mả. Trở về Huế nơi các lăng tẩm các vì vua, vẫn có những tượng chiến mã cùng với voi trận và các bậc công thần.

Nhưng buồn thay người ta cũng lạm dụng ngựa trong việc phi nghĩa phi nhân đạo như dùng ngựa trong việc xử tội “Tứ mã phân thây”, “Voi dày ngựa xéo”...Người ta còn lạm dụng sức lao động của ngựa như kéo xe, kéo cày...ta thử nhìn hình ảnh những con ngựa cu nhỏ thó ở các khu du lịch nước ta, ốm nhom ốm nhách quanh năm suốt tháng thiếu ăn thiếu uống, vậy mà phải kéo những chiếc xe cây thô sơ chở hàng chục khách du lịch ông tây bà đầm, ông nào bà nấy 100 kg trở lên, lọc cọc suốt ngày trên những con đường lộ đất gồ ghề. Kẻ viết bài nầy không dám nhìn vào cặp mắt của những con ngựa tội nghiệp nầy khi nó đang kéo những cỗ xe ngầng như vậy. Bên Tây cũng khồng vừa gì. Gần đây ở Pháp, ở Đức, ở Anh nước có truyền thống quí trọng ngựa vậy mà ngựa vẫn bị lén lút làm thịt xay ra làm ba-tê thế cho thịt bò, thịt heo...

Nói chung ngựa là một con vật mà loài người chúng ta xếp vào hàng loài vật đóng góp nhiều cho sự sinh tồn của chúng ta từ thể chất đến tinh thần đáng cho ta trân trọng lắm lúc về mặt nào đó ngựa và chó được vinh danh ngang với người.



BIỂU TƯỢNG NGỰA:
- Lộc mã muốn chỉ sự giáu sang, phát đạt, tiền tài, gia sản.
- Ngựa phi nước đại tượng trưng cho sự bôn ba rày đây mai đó. Vó ngựa đường xa.
- Bạch mã nếu là bạch mã thì phải được dẫn đi – đồng hành với chủ chớ không được cỡi – là biểu tượng của sự thăng quan tiến chức.
- Đôi ngựa hay song mã. Hình ảnh đôi ngựa hay đôi tuấn mã ắt hẳn đem lại tài lộc,
-Tám ngựa. Hình ảnh tám ngựa bờm dựng lên, đuôi thẳng ...phi nước đại trên đường thiên lý là biểu tượng của sự thành công trong kinh doanh, thăng quan tiến chức trong quan lộ, thành đạt trong thi cử.
- Mã đáo thành công. Cũng hình ảnh tám ngựa như vậy, nếu đặt trên bàn làm việc và hoặc treo trên tường nhà mà phải hướng chạy phải là hướng vào nhà, sẽ đạt được mọi điều cát lợi như làm quan lên chức, buốn bán làm giàu, thi cử đỗ đạt tóm lại vạn sự hanh thông đúng theo ý mã đáo thành công. Có người cho là hướng ngựa chạy ra cổng lớn hoặc cửa cái, hoặc đường lộ ...nếu nói như vậy thì mâu thuẩn với từ “đáo” là về, hơn nữa tài lộc, danh dự thì phải hướng vô chớ cho nó tuồng hết ra ngoài thì thành “mã... đào khánh tận” mất.




- Mã thượng đắc thiên hạ. Ngày xưa lấy chiến trận làm nên nghiệp cả nên quá trình chiến đấu là luôn luôn trên mình ngựa. Do vậy thành ngữ nầy muốn nói chỉ có mỗi một cách đắc thiên hạ là phải cầm thương cỡi ngựa ra mặt trận.

- Mã thượng phong hầu. Hình ảnh một con khỉ ngồi trên lưng hay trên bờm con ngựa để bắt chí – mấy ông ba tàu dám ghép chữ và ghép ý một cách trời ơi để trở thành “Mã thượng phong hầu” tức là mong ước cho việc thăng quan tiến chức nhanh chóng. Số là chữ “hầu” nghĩa là khỉ, đồng âm với chữ “hầu” trong chức phẩm “hầu” làm quan. Hình ảnh con khỉ ngồi trên ngựa, “mã thượng - vậy mà do óc sáng chế của người Tàu biến thành cụm từ mỹ miều “Mã thượng phong hầu” rồi vẽ thành hình lếu láo bán cho các “công bộc của dân” rất chạy.

- Ngựa quen đường cũ. Ngựa không thua chó về trí nhớ những con đường mà nó đã đi qua dù ngàn dậm để có thể trở về nhà. Một chủ tướng tử thương trong chiến trận, ngựa tự động mang xác chủ về nhà..

- Trung thành và chung thuỷ. Ba tấm gương: 
1.- Không thờ hai chủ: Ngựa Đích Lư của Lưu Bị. 
2.- Chỉ thờ người chủ tướng anh hùng: Ngựa Xích thố của Quan Vân Trường. 
3.- Tình chiến hữu, đồng sanh đồng tử: Ngựa Buchephalus và Alexandre Đại đế.

- Da ngựa bọc thây. Không biết bao nhiêu chuyện từ Á sang Âu kể về những con chiến mã đã từng mang thi hài của người chiến sĩ kỵ mã tử trận về doanh trại. Trong những phim chiến đấu của Mỹ cũng đã có chiếu những cảnh như vậy.

- Kỵ binh. Ngày xưa trong chiến tranh kỵ binh là lực lượng quan trọng nhất. Ngày nay sức ngựa không bì với sức cơ giới tuy nhiên trong quân đội hiện đại các nước Tây phương vẫn còn dùng từ kỵ binh, cavalerie để chỉ đội quân thiết giáp. 





ĐẶC ĐIỂM CỦA LOÀI NGỰA
So với các động vật loài ngựa có quá nhiều đặc điểm:
- Hệ thống bộ tiêu hoá của ngựa ở giữa của loài nhai lại và không nhai lại. Chất enzyme trong ruột có thể làm tiêu hoá những thức ăn cứng và dai như rơm rạ, bo bo, các loại hạt.
- Ruột của loài ngựa cũng tương đối lớn và dài nên có cụm từ “thẳng như ruột ngựa”.
- Ngựa ngủ ít hơn các loài vật khác và ngựa ngủ đứng thay vì nằm. Tại sao? Vì ngựa ngoài công việc kéo xe kéo cày, công việc chính của ngựa là phương tiện giao thông và hơn hết là....xông pha chiến trận. Vậy ngựa phải sẵn sàng mọi lúc mọi khi, khi nhiệm vụ cần đến.
- Ăn. - Ngựa có thể ăn suốt ngày Ngựa có thể vừa kéo xe vừa ăn.
- Phóng uế. Cũng vậy, ngựa là loài động vật duy nhất có thể vừa chạy vừa phóng uế. Hai đặc điểm nầy cũng vì cần phải thích ứng với điều kiện cấp bách cho nhiệm vụ của loài ngựa là đang kéo xe, đang xông pha trận mac...
- Tình đồng loại. Một con ngựa ốm, cả tàu không ăn cỏ. Điều nầy được chứng minh trên thực tế.
- Không loạn luân, dù là loài vật.



GIAI, HUYỀN VÀ THẦN THOẠI VỀ NGỰA

I. VIỆT NAM


1-Phù Đổng Thiên Vương. Đời Vua Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân tràn sang xâm lấn nước ta. Thế nước yếu, vua cho đi loan truyền các nơi cho nhừng người tài giỏi ra cứu nước. Tại làng Phù Đổng huyện Võ Ninh, có một gia đình giàu có đến 60 tuổi mới sinh một đứa con. Người con nầy mãi đến 3 tuổi vẫn còn nằm trên giường không hề biết nói mà cũng không biết đi biết chạy.

Một hôm sứ giả của vua đến địa phương nầy rao truyền cho người tài ra dẹp giặc. Cậu bé bỗng nhiên mở lời và lớn tiếng nói với mẹ xin gặp sứ giả để xin tùng quân đánh giặc. Bà mẹ vô cùng kinh ngạc và lo lắng tuy nhiên sứ giả cũng đến. Cậu bé dõng dạc yêu cầu sứ giả về xin vua đúc cho cậu một bộ giáp sắt, một mũ sắt, một roi sắt và một con ngựa sắt..khi nào giặc đến hãy mang đến cho cậu.

Thật vậy, khi giặc tràn sang cậu bé vung vai trở thành một người lớn vậm vở mặc giáp sắt, đội mũ sắt, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa sắt phi ngựa đi đánh giặc. Ngựa phun ra lửa, cậu bé tung hoành giết giặc đến nổi roi sắt gảy, cậu bèn nhổ bụi tre tiếp tục chiến dấu. Trước sự dũng mảnh, giặc xin đầu hàng. Sau khi đánh tan giặc, cậu bé phi ngựa đến làng Ninh Sóc dưới chân núi Sóc Sơn, cùng ngựa bay lên Trời. Nơi đây vẫn còn dấu vết lửa của ngựa sắt đốt cháy cả một vùng nên đến bây giờ còn gọi nơi đây là làng Cháy. Để nhớ công ơn, vua phong là Phù Đổng Thiên Vương đời đời nhang khói. Tượng của Đức Phù Đổng Thiên Vương bao giờ cũng vẫn là trên lưng ngựa sắt phun lửa. Dân gian tôn vinh Ngài là Thánh Gióng.

2- Lao Thạch Mã. Việt sử còn đề cập đến chuyện con ngựa đá thời nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi dẹp tan giặc Mông Cổ, nhân lúc thấy các con ngựa đá đứng chầu trước các miếu có dính bùn, vua Trần Nhân Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán.
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
Dịch là:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng. 

3- Nhứt nhân nhứt mã. Một người một ngựa. Hình ảnh một dũng tướng một người một ngựa xung pha trận mạc giữa gươm đao, hào hùng biết bao. Trong một trận chiến chống quan Mông cổ, Lê Phụ Trần là tướng một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ, sắc mặt vẫn thản nhiên tung hoành như chỗ không người.
Trần Duệ Tông là vua cũng là một danh tướng đã từng trên lưng ngựa chiến đấu kiên cường giữa mũi dáo đường tên và chết tại trận tiền. 

4- Đền Bạch Mã Hà Nội. Đền Bạch Mã ờ Hà Nội là một trong bốn trấn của thành Thăng Long cùng với Đền Quan Thánh, Đền Kim Liên và Đền Voi Phục. Đền Bạch Mã trấn giữ phía Đông Kinh thành, hiện nay là Q.Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ tức là Rún của rồng, vị thần gốc của Hà Nội cổ. Khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long công việc xây đắp thành nhiều lần đổ vỡ. Vua nằm mộng thấy từ đền Long Đỗ có một con ngựa trắng đi ra. Theo vết chân ngựa, vua cho xây lại và đã thành công nên đặt tên đền nơi đây là đền Bạch Mã. 

5- Đền Bạch Mã xứ Nghệ. Đền Bạch Mã được xây dựng từ đầu thời Lê, để thờ Phan Đà, người đã có công lớn chống quân Minh. Phan Đà quê Chí Linh tư chất thông minh, võ nghệ tài giỏi, đầu quân trong nghĩa binh Lam Sơn

Trong một lần đi thám thính nắm tình hình, ông bị địch phục kích và chém trọng thương ở bến Nguyệt Bổng. Con chiến mã trung thành đã mang ông về căn cứ, ông đã trút hơi thở cuối cùng tại đó. Cũng có truyền thuyết, lúc ngựa mang ông qua vùng Lai Thành (nay thuộc xã Thanh Long) một dòng máu của ông đã chảy xuống và nơi đây mối xây lên thành nấm mồ lớn. Về sau dân làng lập miếu thờ tại địa điểm nầy. Vua sắc phong là “Đô Thiên đại đế Bạch Mã thượng đẳng phúc thần”.


II.HY LẠP CỔ ĐẠI. 

1/ Chòm sao Auriga. Theo thần thoại Hy Lạp, con ngựa đầu tiên do Hải Thần Poseidon tạo dựng và vị vua thứ nhất của xứ Athens tên Erichthonius là người đầu tiên xử dụng xe ngựa. Do đó, nhà vua và cỗ xe tứ mã này được đưa lên trời trở thành chòm sao "Auriga" có nghĩa là "Người cưỡi xe" (charioter) bất tử. 

2/Ngựa Arion, Baios, Hyppocampus. Ðặc biệt, ngựa của võ sĩ khỏe vô địch Hercules mang tên Arion do Thủy Vương Neptune tạo ra bằng cách dùng chĩa ba đâm mạnh xuống mặt đất. Ngựa Arion có chân người, nói tiếng người và chạy rất nhanh. Thủy Vương cũng tặng hiệp sĩ Achilles một con ngựa qúi mang tên Baios. Thủy Vương Neptune có đặc tài tạo ra những loài ngựa pha trộn hiếm có, kỳ lạ như giống "Hyppocampus" thân giống rồng hay cá, chỉ có hai chân trước.

3/Phi mã. Pegasus.Những con ngựa vừa kể tuy rất nổi tiếng, nhưng cũng chưa thể so sánh được với huyền thoại về thần mã Pegasus hay "nhân vật" đầu người mình ngựa Centaurus Pegasus, một con ngựa có cánh như chim đại bàng, là con của Thủy Thần Poseidon và nàng Medusus. Khi Medusus bị người hùng Persus chém đầu, máu từ cổ nàng phun ra thành ngựa Pegasus. Ngay khi vừa ra đời, Pegasus dậm mạnh chân xuống núi Helicon tạo thành giòng suối Hippocrene khơi nguồn cho thi ca. Pégasus bị vua xứ Corinthe thuần phục và thắng đai vàng. Về sau Trời bắt Pegasus về trời và biến thành chòm sao Pegasus trên thiên thể.

4/Nhân mã. Centaurus. Người Hy Lạp bị tấn công bỡi những kỵ mã vô danh mà họ cho là những quái vật người và ngựa là một, nửa người nửa ngựa sống trong rừng núi và ăn thịt sống. Do vậy trong thần thoại Hy Lạp ta thấy những nhân mã – centaurus – với hình ảnh một quái vật mà chân và thân là ngựa còn tay và đầu là người.

5/Thần mã Buchephalus. Buchephalus chỉ là con ngựa của Alexandre Đại đế mà tên của nó có nghĩa theo ngôn ngữ Hy Lạp là “bạn của những con ngựa”. Alexandre Đại đế và con ngựa Buchephalus qua dòng đời chiến đấu đầy gian khổ đến đỉnh vinh quang cũng là ngày tận số của cả hai, không còn là chuyện của một chiến mã và một dũng tướng mà đã trở thành một mối tình chiến hữu sinh tử, hơn thế nữa là một chuyện tình thuỷ chung đầy xúc động.




326 năm trước CN., Buchephalus, thuộc giống nhân mã cùng tuổi với Alexandre nhưng là một con ngựa chứng không phục tùng bất một ai ngoại trừ Alexandre. Khi còn nhỏ vua cha đã nói với Alexandre: Đế quốc Macedoine nầy đối với tài con quá nhỏ. Và Alexandre đã nghe theo cha thôn tính khắp cả Trung Đông bây giờ, cả đến tận Án Độ dường như chỉ với một mình một ngựa. Đó là Alexandre dũng tướng và Buchephalus chiến mã.

Trong một trận chiến ác liệt, Buchephalus bị thương rất nặng, Alexandre định thay ngựa khác nhưng Buchephalus không chịu lần đến chủ tướng mọp mình cho Alexandre lên yên và với sức cùng lực tận Buchephalus đã hoàn thành sứ mạng đưa Alexandre chiến thắng trong trận nầy trước khi Buchephalus trút hơi thở cuối cùng.

Alexandre đã trở thành một hoàng đế lừng danh tự cổ chí kim túc là Alexandre Đại đế, Alexandre le Grand. Nhà vua an táng Buchephalus với tất cả nghi lễ quân cách trọng thể và nơi đây trở thành một thành phố mang tên thành phố Buchephalus do nhà vua đặt. Không bao lâu Alexandre Đại đế, người bạn, người chiến hữu chung tình, chung thuỷ cũng chết theo Buchephalus.

Ngựa đã lập nên nhiều kỳ tích trong thể thao và trong chiến đấu. Ngựa là " bạn thân" của các bậc danh nhân và giai nhân trên thế giới đông tây, kim cổ.

6/ Ngựa Thành Troie. Con ngựa thành Troie là ngựa gỗ mà đội quân Hy Lạp đã dùng mưu kế để chiến thắng chiếm lấy thành Troie. Sau 10 năm bao vây thành Troie, quân dđội Hy Lạp không thể chiến thắng quân Troie bằng sức mạnh quân đội nên đã buộc phải làm theo kế hoạch của Odyssey là dỡ tàu ra và lấy gỗ để làm thành một con ngựa khổng lồ cho quân lính vào ẩn náu trong lòng ngựa. Sau đó quân Hy Lạp giả vờ rút khỏi và chỉ để lại một người và con ngựa gỗ. Người này có nhiệm vụ đánh lừa quân Troie, khiến họ tưởng rằng ngựa gỗ là món quà của quân Hy Lạp đền bù cho tượng Thần Athena đã bị phá hủy. Thực chất trong con ngựa chứa đầy lính. Khi quân Troie no say sau bữa tiệc chiến thắng, quân Hy Lạp trong bụng ngựa đã xông ra đánh bất ngờ và mở cổng thành cho quân bên ngoài vào. Nhờ có ngựa gỗ mà quân Hy Lạp đã chiến thắng. 





III.-TRUNG HOA CỔ.



a. Ngựa Ô Truy. Hán Cao Tổ, ông vua sáng lập ra nhà Hán vẫn thường tự phụ là nhờ có mười năm sống trên lưng ngựa nên mới thu phục được cả giang san. Kẻ thù số một của Hán Cao Tổ là Sở Bá Vương Hạng Võ khi mới khởi nghiệp, cũng thu phục được thần mã Ô Truy ở bên cạnh, Về sau, khi thất thế, trước giờ tự tận, Hạng Võ đem con ngựa quý của mình nhờ người lái đò đưa nó qua sông để trở về đất Giang Đông. Nhưng khi thuyền vừa buông chèo, con Ô Truy hí lên mấy tiếng ai oán rồi nhảy xuống sông mất dạng.

b.Ngựa Đích Lư. Cuối đời Hán có ngựa Đích Lư cũng thuộc loại thần mã. Nó mang Lưu Huyền Đức nhảy qua suối Đàn Khê thoát nạn trong khi đoàn quân của Thái Mao truy đuổi theo sau. Ngựa Đích Lư vốn có một xoáy trắng ngay vầng trán, có người báo với Lưu Bị là ngựa phản chủ. Lưu Bị trả lời: Ngựa phản chủ là khi nào chủ phản nó, còn ta thì không.

c. Ngựa Xích Thố. Ngựa Xích Thố có sắc lông màu đỏ tượng trưng cho ngựa quý. Ngựa Xích Thố, vốn là của tướng hữu dũng vô mưu Lã Bố. Sau Tào tháo giết Lã Bố chiếm con Xích Thố và đem tặng cho Quan Vân Trường để lấy lòng. Quan Vân Trường được Xích Thố bèn quì lạy Tào Tháo xin cám ơn. Tào Tháo đỡ dậy mà rằng: Ta thường tặng cho Quan Hầu nhiều thứ quí giá ngọc ngà châu báu, mỹ nữ mà Quan Hầu không nhận, thế sao chỉ con ngựa nầy mà Quan Hầu lại đa lễ như vậy?

Thật vậy Quan Công đã cùng với con Xích Thố xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, sống chết có nhau. Và cũng chính Quan Công cỡi con Xích Thố nầy quá ngũ quan trạm lục tướng của Tào Tháo trong việc phò nhị tẩu vượt vòng vây về với Lưu Bị. Khi Quan Công chết, con Xích Thố cũng buồn mà chết theo. Câu chuyện nầy khiến khiến nhớ đến chuyện Alexandre Đại đế và con thần mã Buchephalus trong sử Hy Lạp.

d. Bạch mã, bạch giáp, bạch bào. Đó chính là hình ảnh của Triệu Tử Long một dũng tướng trong Tam Quốc chí. Mỗi khi ra ra trận, Triệu Tử luôn dùng bạch mã, bạch giáp, bạch bào...đúng là trang anh hùng nam tử.

e. Ngựa Tiêu Sương. Vua nước Lương có ngựa rất quý, ngày chạy ngàn dặm, tên là Tiêu Sương. Khi con ngựa này bị vua Tống đánh cắp đem đi, nó nhớ chủ cũ, bỏ ăn rồi chết.

f. Ngựa gỗ của Khổng Minh. Đương dầu với quân sư nhà Nguỵ là Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng, một binh gia đại tài, quân sư của Lưu Huyền Đức đã chế tạo ra một loại ngựa gỗ thay thế ngựa thật để vận tải quân lương và cố tình tiết lộ kỹ thuật nầy cho Tư Mã Ý. Tư Mã Ý, quân sư của Tào Tháo đã đánh cắp được kỹ thuật và cũng chế tạo ra loại ngựa gỗ giống như vậy nhưng bị Khổng Minh đưa vào tròng phản gián nên đã để cả đoàn xe lương thực của mình cho quân Thục Hán chiếm. Cho nên có thơ: Kiếm Quan hiểm tuấn khu lưu mã. Tà Cốc kỳ khu giá mộc ngưu. Nghĩa là: Ải Kiếm núi cao cưỡi ngựa máy. Tà Cốc hiểm trở ngồi ngựa gỗ.

Câu chuyện nầy có điểm giống câu chuyện con ngựa thành Troie của Hy Lạp và ngựa sắt của Đức Phù Đổng Thiên Vương của Việt Nam.

g. Hãn huyết bảo mã. Ở Trung Quốc khi khai khu lăng tẩm Tần Thuỷ Hoàn người ta khám phá ra có một loài ngựa lạ lùng có mồ hôi đỏ như máu “Hãn huyết bảo mã”. Những nhà khoa học ngày nay sau khi nghiên cứu đã cho là vấn đề có tính khoa học. 



( sưu tầm )

chúc mừng năm mới



Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

giá trị của thời gian


Giá trị của Thời gian


Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
- Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
- Không được. – Thần Chết lắc đầu.
- Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
- Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
- Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
- Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
- Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
- Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.

Bạn thấy đấy, giá trị của thời gian không nằm ở đồng tiền, giá trị của thời gian nằm ở những năm tháng chúng ta đang sống hoài hoang phí.

Chúng ta đang hoang phí thời gian mình có, thời gian mà, đang đếm ngược, đang trừ dần từng ngày ta bước qua.

Trong khi những sĩ tử thi đại học đang trong những ngày thi vất vả, khi những người lao động đang làm việc cật lực trong nhà máy, những cỗ xe, những máy cày đang cật lực cày kéo trên những cánh đồng, thì chúng ta ngồi đây, một số người than thở vì tình, một số người khóc lóc cho những chuyện vụn vặt….
Bạn có biết, tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại tất thảy những điều tốt đẹp.

Nếu giá trị thời gian, tiền không đo đếm được, thì giá trị của cuộc đời, thời gian không đo đếm được.

Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.

Bạn sống 20 năm, nhưng đối tốt với người thân, bạn bè, làm những việc có ích cho đời, còn hơn sống 70 năm mà sống hoài sống phí. Hoặc một mình cô độc giữ khư khư khối tài sản, hoặc làm những việc ngốc nghếch tổn hại đến bản thân.

Đứng lên cô gái yêu đơn phương, cô gái thất tình. Tỉnh lại nào cậu học trò nhỏ uống thuốc tự vẫn. Cậu còn quá nhiều điều để làm hơn là chết một cách vô vị như vậy. Khóc để làm gì, thở than để làm gì khi ta còn chưa có những kỉ niệm vui?
Thứ giá trị nhất mà cuộc sống cho ta là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị.

Bởi đồng tiền không mua được, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý.
Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân.

Chính là thời gian bạn sống.

Hãy nhớ rằng: Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian.



Lời nói dối của Cha


Cha mẹ nó lớn tuổi mới cưới nhau. Hồi đó, gia đình nghèo khó. Mẹ mất sớm, cha tần tảo nuôi 3 anh em nó nên người. Nhà gần sông, nhưng cha đau yếu, ít khi có được con cá mà ăn, mà có được bữa cá đã là thịnh soạn lắm với anh em nó rồi. Nó còn nhớ, mỗi lúc ăn cá, cha thường bảo: “Để tao ăn đầu và xương”

Nó nhanh nhẩu: “Tại sao hả cha?”

Cha nó nói vẻ mặt nghiêm nghị, kiểu răn dạy: “Vì cha già rồi, hay đau đầu, nên ăn đầu thì nó sẽ bớt đau – cái này gọi là ăn óc bổ óc, hiểu không? Xương yếu, ăn xương thì sẽ cứng cáp hơn. Có vậy mà cũng không hiểu hả?”

Tâm hồn trẻ con, nó và hai đứa em đinh ninh là cha nói thật. Mỗi lúc đến bữa ăn, nó còn nhanh nhẩu sẻ ra từng phần. Bỏ đầu và xương qua cho cha nó. Ba anh em tranh nhau phần thịt.

Có những lúc nó cũng phân vân, những khi như thế, cha nó lại bảo: “Hồi nhỏ, ông bà nội cho tao ăn thịt suốt, giờ nhìn thịt là cha thấy ớn quá, sau này lớn các con cũng như cha thôi.”

Thấm thoắt thoi đưa, anh em nó lớn lên, và cha nó già đi. Sau này, khi nó đủ hiểu biết mới nhận ra những lời cha nó nói trước đây là nói dối, thì cũng là lúc đời sống của gia đình nó khấm khá hơn. Anh em nó có thể thay cha đi đò, đi sông, mò cua, thả cá.

Vì thế mà cha nó cũng thỉnh thoảng ăn thịt, hay ăn thường xuyên nó cũng chẳng nhớ. Vì tuổi trẻ bồng bột, không dám – không ngẫm nghĩ nhiều về yêu thương, hay vì cha nó cố tìm cách cho “lời nói dối” được anh em nó chấp nhận hơn, nó cũng chẳng còn nhớ.

Để đến hôm nay, khi đã thành đạt, vợ đẹp, con ngoan. Cuộc sống hối hả, vô thường vô tận. Nó cũng chẳng bao giờ đóai hoài đến cái đầu, hay miếng xương con cá. Vì những thứ đó đã được vợ nó bỏ đi, chỉ mang phần thịt lên mâm cơm.

Hôm nay là ngày giỗ lần thứ 10 của cha nó. Nhìn di ảnh ba gầy còm, nhưng nở một nụ cười tươi sáng. Nhìn con cá chiên to đùng, lấp lánh mỡ mà vợ đặt lên bàn thờ, nó chợt bất giác rơi lệ. Một cơn đau từ đâu hiện về nhói lòng vô tận.

Nó phải quay mặt đi để lau hàng lệ, để giấu vợ con. Nhưng nó không thể xóa đi được hình dáng cha già còm cõi, xiêu vẹo bước đi bên sông, “cha đi thả cá mùa nước nổi”. Rồi sau đó là những trận thương hàn triền miên hành hạ ông. Nó không thể xóa đi được cái ý nghĩ “nếu cha ăn nhiều thịt hơn, thì đã không già yếu như thế”. Vừa khấn vái, nó lại bất giác kêu lên những tiếng “cha” từ trong cổ họng.
Đến lúc ra bàn ăn. Nhìn vợ đang xẻ thịt con cá, để bỏ đi phần đầu và xương. Nó giữ tay vợ lại: “Em, để anh ăn đầu, đừng bỏ đi”.

Vợ hiểu. Vợ nó bỏ đầu cá qua cho chồng. Chỉ có cô con gái nhỏ là thắc mắc “Sao hôm nay ba lại ăn đầu, nó lắm xương, nó sẽ làm đau ba đấy”.

Nó xoa đầu con gái, nuốt tiếng nấc đang chầu chực nơi cổ họng vào trong, bảo “Dạo này ba hay đau đầu, nên ăn đầu sẽ hết đau con gái à, cái này gọi là ăn đầu bổ đầu đấy con yêu”.

Nó vừa ăn vừa cố cho những giọt nước mắt không tràn xuống bát cơm.


Sưu tầm



Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014


Phép màu giá bao nhiêu?

Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra ai để vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.

Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.

Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”
Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”
- Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.
- Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
- Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc – Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
- Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?

Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”
- Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.”
- Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”

Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu”.
Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.”

Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.

Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.




Nguyên liệu và chiếc bánh


Mỗi sự vật, sự việc xảy ra hàng ngày trong cuộc sống quanh ta đều có lý do riêng và đều chứa đựng một ý nghĩa sâu xa của riêng nó.

Một cậu bé than thở với bà nội về đủ thứ chuyện tồi tệ ở lớp học, ở nhà và cả những khó khăn trong học tập, những chuyện phức tạp, khó khăn khác trong cuộc sống… mà hàng ngày cậu phải đương đầu.

Trong lúc đó, bà nội của cậu đang cặm cụi trong bếp để chuẩn bị nướng một chiếc bánh. Bà nội nhờ cậu bé giúp mình một tay.

- Cháu lấy giùm bà chai dầu ăn nhé ! – Bà nội nói.
- Vâng! Chai dầu ăn của bà đây ạ !
- Cháu thấy mùi vị của nó thế nào ?
- Ôi! Khiếp quá! Mùi vị gì mà béo ơi là béo !
- Bây giờ cháu lấy cho bà mấy quả trứng và đập bỏ vào tô rồi quấy đều lên.

Cậu bé nhanh nhẹn giúp bà.
- Cháu thấy mấy quả trứng có mùi vị thế nào ?
- Mùi vừa ngậy ngậy vừa tanh tanh, rất khó ngửi.
- Cháu có thích nếm thử bột mì không?
- Cháu thấy nó chẳng có mùi vị gì hấp dẫn cả, lại làm cháu suýt nữa bị sặc.
- Cháu thêm vào đây cho bà ít muối.
- Bà ơi! Muối sao mà mặn quá?
- Bây giờ, cháu rắc vào đây thêm một ít tiêu nữa.
- Mùi tiêu cay nồng làm cháu chảy cả nước mắt!
- Cháu nói đúng đấy! Nhưng nếu không có tất cả những thứ nguyên liệu như vừa rồi thì bà cháu mình không thể nào làm được một chiếc bánh ngon tuyệt như cháu đang thấy đâu!

Vâng, cuộc sống của chúng ta cũng như vậy! Chắc bạn đã từng rất nhiều lần than phiền về đủ thứ chuyện khó khăn, những sự vật, sự việc phức tạp mà bạn phải đương đầu hàng ngày, phải không?

Mỗi sự vật, sự việc xảy ra hàng ngày trong cuộc sống quanh ta đều có lý do riêng và đều chứa đựng một ý nghĩa sâu xa của riêng nó. Liệu bạn cứ than trách về chúng hay là bạn biết sử dụng chúng như những thứ “nguyên liệu” cần thiết để làm nên “chiếc bánh” ngon tuyệt, tất cả đều tùy thuộc vào chính bạn mà thôi.



Lá thư gởi Mẹ

Mẹ! Con yêu mẹ. Con yêu mẹ. Và con sẽ sống thật tốt như những gì bà ngoại đã dạy mẹ để mẹ dạy con. “Sống không quỵ lụy ai, không hài lòng và không giả dối”.

Mẹ kính yêu..!
Giờ này mẹ đã ngủ….
Con viết cho mẹ khi con đang say. Hôm nay con uống 2 cốc bia mẹ ạ. Con say. Con khóc.

Ngày 20/10 là gì hả mẹ? Với mẹ chỉ giản đơn là 1 ngày bình thường thôi nhỉ.
Con khóc. Và con nghĩ về mẹ. Từ khi con hiểu được 20/10 là gì? Con đã làm được những gì cho mẹ.

Ngày cấp 1 con xin mẹ 2.000 đồng để đóng tiền mua hoa cho cô giáo chủ nhiệm. Đi học về thấy mẹ đang bán những tạ than đen nhẻm, cái cân phải luồn đòn gánh vào vì chưa có cân bàn… vai phải mẹ thường đau mỗi tối.

Ngày cấp 2 con xin mẹ 10.000 đồng để góp tiền mua hoa cho cô, còn mua thiếp hí hoáy cả đêm tô vẽ, tặng những người bạn con yêu thương. Mẹ nằm trên giường vắt tay lên trán: “Tháng này bố mày chắc không được nghỉ phép”…

Ngày cấp 3 con xin mẹ 50.000 đồng, để cùng các bạn trong lớp cắm trại và liên hoan tới tối muộn mới về. Mẹ đã lau sạch sẽ nhà cửa, mâm cơm tối vẫn còn để gọn gàng thức ăn cho riêng con. 2 thằng em chành chọe nhau mệt rồi lại ôm nhau ngủ…

Đại học. Con là cán bộ lớp, con chúc mừng nhiều người lắm, bạn bè, cô giáo, những cô bác con quen…những ngôn từ dí dỏm và đặc biệt dành riêng từng người. Mẹ điện thoại lên và nói những điều như ngày nào cũng điện để nói: ” Đi ngủ nhớ mắc màn, tối nhớ cài cửa thật kỹ, ngủ sớm đi”.
Nhưng…mẹ biết không, con luôn nghĩ tới mẹ đầu tiên. Con luôn thế. Ngày bé, có lần con làm tặng mẹ bài thơ nhưng không dám đưa, có lần mua hoa tặng mẹ rồi lại đưa cho đứa bạn về… cắm. Có lẽ do mình ở quê mẹ nhỉ? Ở quê những bà mẹ đầu tắt mặt tối, chẳng chồng con nào tổ chức ngày của mẹ.

Con lên thành phố
-Con gặp những người đàn bà ngang tuổi mẹ. Họ mặc váy và đi dép cao. Họ bước những bước đi uốn dẻo nhẹ nhàng lịch lãm, không vội vã, tất bật như mẹ. 8h tối họ trang điểm và đi cafe, mẹ cơm nước, giặt giũ và mắc màn cho chúng con ngủ.

-Con gặp những người đàn bà ngang tuổi mẹ. Họ nói về mooda, về khiêu vũ, về những chuyến công tác đi mệt lử nhưng biết nơi này, nơi kia, biết món này món kia. Còn mẹ của con, khi con điện thoải về hỏi: Mẹ ơi con ghẹ là con gì mẹ nhỉ? có người nói với con là con ghẹ ăn ngon. Mẹ trả lời: “Mẹ cũng không rõ lắm, hình như nó giống con hến, con ngao”…Và khi con được biết về con ghẹ. Con khóc.

-Con gặp những người đàn bà ngang tuổi mẹ. Chồng họ chở đi siêu thị mỗi tuần, và đi mua cho những bộ quần áo đẹp. Vậy mà những lúc chán chồng, họ đi ra phố phường với đám bạn, và vào vũ trường, vào cafe. Còn mẹ, mẹ khóc mỗi khi bố làm mẹ buồn. Và mẹ nói với chúng con: “Chỉ mẹ được nói bố, chúng mày là con dù bố mẹ có sai đến thế nào cũng không có quyền nói…”.


 Mẹ của con,
Lúc này con nhớ về tuổi thơ con. Quãng đời con trải qua bên mẹ. Chúng con luôn có mẹ ở bên. Và bố cũng thế, bố gọi điện thoại mỗi ngày mẹ nhỉ, và bố gặp lần lượt từ mẹ tới 3 đứa con… Bố mỗi tháng về 1 lần. Chúng con lớn lên, đứa nào cũng sáng sủa khôn ngoan, ai cũng khen mẹ thật giỏi, bố thật may vì có mẹ… Bố con cũng là một người đàn ông tuyệt vời phải không mẹ. Dẫu đôi lúc bố làm mẹ buồn, nhưng con người có ai hoàn hảo đâu? Con cũng thấy xấu hổ lắm, khi con, khi em con, chẳng ngoan như những gì mẹ đã chờ mong.

Mẹ! Mẹ ngủ đi, đừng thức nữa, sao giấc ngủ mẹ chẳng sâu thế. Sao sau 1 đêm mắt mẹ càng quầng? Sao mẹ hay ốm đau?

Mẹ! Con yêu mẹ. Con yêu mẹ. Và con sẽ sống thật tốt như những gì bà ngoại đã dạy mẹ để mẹ dạy con. “Sống không quỵ lụy ai, không hài lòng và không giả dối”.
Con đã lớn khôn, con đã trưởng thành, nhưng những tối rúc đầu vào nách mẹ mà ngủ vùi, tới sáng vẫn dang chân tay trên giường ngon giấc…còn mẹ đã nấu xong bữa sáng. Con bỗng thấy mình như một công chúa nhỏ, thấy con là người hạnh phúc nhất thế gian, vì tất cả những gì bố mẹ dành cho chị em con, là những điều con không mong gì hơn thế nữa.

Đêm nay con chúc mẹ ngủ ngon, và bố ở nơi xa sẽ luôn mơ về mẹ!




Niềm quên quen thuộc

Tại một khách sạn sang trọng trong thành phố, anh cho bày một yến tiệc mời mẹ đến. Vì việc này mà vợ và anh đã không ít lần cãi nhau, vợ nói: nhà đã dư dả gì đâu, lại còn bày vẽ thêm chuyện?

Anh giải thích: mẹ vất vả nuôi anh khôn lớn. Kết hôn đã 8 năm, đây là lần đầu tiên mẹ từ quê ra chơi, anh muốn mẹ yên tâm, cuộc sống của anh không thiếu thốn chi cả.

Vợ không thay đổi được ý định của anh, đành ấm ức đi đến khách sạn. Trong bữa ăn, vợ không ngừng gắp thức ăn cho con trai. Tuy ở trong thành phố, nhưng đây là lần đầu tiên thằng bé mới được ăn những món ngon thế.

Mẹ ăn rất ít, ánh mắt hiền từ nhìn con cháu, mỉm cười hạnh phúc. Anh nói mẹ ăn nhiều một chút, mẹ cười nói: “Mẹ già rồi, ăn một chút vào là no”. Nhìn bàn ăn còn đầy, anh khó chịu bảo mẹ: “Mẹ. Ở khách sạn này có qui định, đồ ăn thừa sẽ bị phạt tiền, không được gói mang về.”

Vợ ngồi cạnh liếc anh một cái: bày trò gì đây? Đồ ăn ngon thế này, nếu gói về vẫn có thể cho con ăn thêm, nó đang tuổi ăn tuổi lớn.

Mẹ nghe vậy, bắt đầu mới động đũa. Trong mắt anh, đây là lần đầu tiên mẹ ăn được nhiều như thế.

Mẹ đi rồi, vợ lại muốn tranh luận với anh. Anh bỗng chảy nước mắt nói: “Từ nhỏ tới lớn, trong nhà có đồ gì ăn ngon, mẹ đều không dám ăn mà dành hết cả phần mình đến bữa sau cho mấy đứa con.

Đã nhiều năm trôi qua, thói quen ấy của mẹ vẫn không thay đổi. Anh luôn có một ước muốn, muốn mẹ được ăn đồ ăn ngon, thay đổi khẩu vị, ăn nhiều một bữa, đâu ngờ chỉ có một lần. Nếu hôm nay anh không nói dối, mẹ nhất định sẽ không động đũa nữa…..”

Anh chưa kịp nói xong, vợ đã rơi lệ. Vợ nhớ đến mẹ mình, cũng chẳng như vậy sao? Ngày hôm nay, vợ cũng đã làm mẹ, mỗi ngày đều vô tư dành hết tình mẫu tử cho con, vậy mà tình mẫu tử mẹ dành cho vợ, vợ hình như đã quên mất…..

Sưu tầm