RẮN
TRONG ĐỜI SỐNG
Chẳng ai lại không biết rắn.
Rắn đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp. Rắn thuộc loài bò sát, là động vật máu
lạnh, và cùng lớp với các loài có vảy như thằn lằn, tắc kè, nhưng rắn không có
chân.
Có nhiều loại rắn. Rắn nào cũng
có độc tố, chỉ khác nhau mức độc hại. Còn có loại rắn hai đầu, chặt mất đầu này
nhưng đầu kia vẫn sống. Rắn nước có vẻ “hiền lành” nhất nhưng được coi là chúa
các loài rắn. Nghe nói rằng ai ăn được 3 mật rắn nước thì dù bị rắn nào cắn
cũng không sao, và còn có thể “đánh mùi” được rắn đang xuất hiện đâu đó.
Rắn có bộ xương rất nhỏ và dễ
vỡ, thế nên khó có dạng hoá thạch. Nhưng trên cơ sở hình thái học, rắn tiến hoá
từ tổ tiên của loài thằn lằn. Nghiên cứu gần đây dựa trên công nghệ gen và sinh
hoá xác nhận rắn tạo ra loại nọc độc cùng nguồn gốc với vài họ thằn lằn còn tồn
tại.
Tất cả các loài rắn đều là loài
ăn thịt. Chúng có thể ăn cả những con rắn khác và các động vật có vú, các động
vật nhỏ như thằn lằn, chim, sâu bọ, kể cả trứng của các loài khác. Một số loài
rắn có nọc độc để giết chết con mồi trước khi ăn, một số loài rắn khác thì xiết
con mồi đến chết, có những loài rắn nuốt sống cả con mồi.
Xương hàm dưới của rắn rất linh
hoạt, hai hàm không cố định mà đa số được nối thẳng vào sọ, cho phép chúng mở
rộng miệng để nuốt trọn con mồi dù cho con mồi lớn hơn nhiều so với đường kính
thân rắn.
Sau khi ăn, rắn trở nên lười
biếng và thụ động khi hệ tiêu hóa bắt đầu làm việc. Lúc này, hệ tiêu hóa hoạt
động rất mạnh, nhất là khi phải tiêu thụ con mồi lớn. Ở một số loài rắn, toàn
bộ hệ tiêu hóa sẽ nghỉ ngơi giữa những bữa ăn để tránh thất thoát năng lượng vì
rắn ăn khá ít.
Người xưa có câu: “Rắn già, rắn
lột; người già, người chột vào hang” (ý nói người già thì chết, “hang” ở đây là
huyệt mộ). Khi rắn lột da, nếu không có đủ độ ẩm thì sẽ rất nguy hiểm, lớp da
khô không thể bị lột ra. Lớp da bám lại sẽ là nơi sản sinh ra bệnh tật và vi
khuẩn. Một phần nhỏ ở cuối đuôi rắn không hề thay đổi khi rắn lớn lên. Rắn tự
cắt đứt đường máu đưa tới khúc đuôi “thừa” và từ từ phần đuôi đó sẽ rụng.
Toàn thân rắn được bao bọc bởi
một lớp vảy. Những chiếc vảy này rất cứng, không lớn lên tương ứng theo sự
trưởng thành của thân rắn. Vì vậy, cứ 2-3 tháng rắn phải thay da một lần. Những
chiếc vảy này không chỉ giúp rắn bảo vệ mình mà còn có chức năng như bàn chân
để có thể trườn bò. Một số loại rắn đặc biệt có khả năng lướt nhanh, chúng có
thể “lướt” rất xa, tầm phóng xa khoảng gần 14 m.
Nọc rắn tuy độc hại, có thể
giết chết người, nhưng chính độc tố đó lại có thể cứu người. Đúng như tiền nhân
nói: “Dĩ độc trị độc”. Y học đã dùng hình tượng rắn làm biểu tượng.
Nọc độc rắn có thể là “độc tố
thần kinh” hoặc “độc tố máu”. Độc tố thần kinh tấn công hệ thần kinh, còn độc
tố máu tấn công hệ tuần hoàn. Rắn độc sử dụng độc tố máu thường có nanh tiết
chất độc ở trước miệng, giúp chúng dễ dàng tiêm thẳng chất độc vào nạn nhân.
Rắn sử dụng độc tố thần kinh có nanh nằm ở phía sau miệng, và nanh đó cong về
phía sau.
RẮN
TRONG Y DƯỢC
Theo Đông y, thịt rắn làm thông
kinh mạch bị bế tắc và trừ phong hàn nên được dùng để trị các chứng phong thấp.
Nó cũng có khả năng chữa trị chứng tê ngoài da, ngứa, nhất là ngứa kinh niên do
chàm (eczema).
Rắn là nguồn cung cấp chất đạm
rất tốt, thịt rắn tương đối nạc, ít mỡ, vì rắn vận động nhiều. Thịt rắn chứa
nhiều vitamin và khoáng chất quý như kali, canxi, sắt, kẽm, vitamin A, D, B1,
B2, B6, B9...
Đông y dùng rắn dưới nhiều
dạng: Ngâm rượu, nấu cháo, rượu pha máu rắn, ăn mật rắn. Y học cổ truyền Trung
quốc có kê những toa thuốc lấy từ 2 loại rắn: một từ rắn độc Bạch hoa xà (chỉ
chung 2 loài rắn hổ và cạp nong) và một từ rắn nước gọi là Ô sao xà.
Đông y cho rằng rắn (không kể
phủ tạng) có tính ấm, vị ngọt, tác động vào Can kinh và Tỳ kinh. Cả hai loại
trên có tác dụng như nhau, nhưng rắn nước thì yếu hơn. Thịt rắn được dùng để
trị các chứng phong thấp, tê ngoài da, ngứa, nhất là ngứa kinh niên do chàm. Da
rắn sau khi lột (xà thuế) có tính bình, vị ngọt mặn, có tác dụng khu phong,
chống co giật nên được dùng trị bệnh phong ngứa ngoài da, và động kinh ở trẻ
em.
Huyết rắn làm tăng sinh lực, bổ
thận, có thể dùng chung với mật rắn để tạo thành “huyết xà đởm”. Mật rắn vị
đắng, tính hàn, có thể làm hạ hỏa và tiêu đờm do nhiệt gây ra. Mật rắn cũng
giúp làm tan máu bầm, được ngâm rượu để chữa chứng nhức xương và phong thấp.
RẮN
TRONG KINH THÁNH
Rắn được coi là “biểu tượng”
của sự độc ác, ám chỉ những người ranh mãnh, lọc lừa, gian dối, quỷ quyệt,
không nên tiếp cận mà phải tránh xa. Người ta thường dùng thành ngữ “cõng rắn
cắn gà nhà” để chỉ những kẻ đưa kẻ thù về làm hại gia đình hoặc tổ quốc mình –
tương tự câu “rước voi về giày mả tổ”.
Rắn cũng là loài xảo quyệt nhất
trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Thiên Chúa đã tạo dựng. Chính con rắn đặt
vấn đề với người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết
mọi trái cây trong vườn không?” (St 3:1). Người đàn bà nói với con rắn: “Trái
các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn” (St 3:2). Rắn nói với người đàn bà:
“Chẳng chết chóc gì đâu!” (St 3:4).
Thiên Chúa hỏi người đàn bà:
“Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”
(St 3:13). Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị
nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng
bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi” (St 3:14).
Và Thiên Chúa nói tiếp: “Ta sẽ
gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3:15).
Cựu ước nhiều lần nói tới loài
rắn.
Ông Gia-cóp có lời chúc phúc:
“Ước gì Đan là một con rắn trên đường, một con rắn lục ở lối đi, cắn gót chân
ngựa, khiến người cưỡi phải ngã ngửa” (St 49:17).
Có lần Thiên Chúa hỏi ông Môsê:
“Tay ngươi cầm cái gì đó?”. Ông đáp: “Thưa một cây gậy” (Xh 4:2). Người phán:
“Vất nó xuống đất đi!”. Ông Môsê vất nó xuống đất, và nó hoá ra con rắn. Ông
Môsê liền chạy trốn (Xh 4:3).
Xh 7:8-13 ghi lại lời Chúa phán
với ông Môsê và ông Aharon: “Nếu Pharaô bảo các ngươi: Hãy làm một phép lạ xem,
thì ngươi hãy nói với Aharon: Anh cầm cây gậy của anh, ném xuống trước mặt
Pharaô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn to”. Ông Môsê và ông Aharon liền đến
với Pharaô và làm như Đức Chúa đã truyền. Ông Aharon ném cây gậy của mình xuống
trước mặt Pharaô và bề tôi của vua: gậy hoá thành một con rắn to. Pharaô cũng
triệu các hiền sĩ và pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của
mình mà làm như vậy: mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành một con
rắn to. Nhưng gậy của ông Aharon nuốt gậy của họ. Dù vậy, Pharaô vẫn cứng lòng,
không nghe ông Môsê và ông Aharon, như Đức Chúa đã nói trước.
Thiên Chúa lại phán với Môsê:
“Ngươi hãy đến nói với Pharaô lúc sáng sớm, khi nhà vua ra mé nước. Hãy đứng
chờ để đón vua ở bên bờ sông Nin. Hãy cầm trong tay cây gậy đã biến thành rắn”
(Xh 7:15).
Tân ước cũng nhiều lần nhắc tới
loài rắn.
Thấy nhiều người thuộc phái
Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông Gioan Tẩy giả nói với họ rằng:
“Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3:7).
Một lần nọ, khi nói về việc cầu
nguyện, Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái
bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt
7:9-10; Lc 11:11).
Còn khi nói về việc truyền
giáo, Chúa Giêsu nói: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy
anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16).
Với những người tà tâm, Chúa
Giêsu quả quyết: “Loài rắn độc kia, xấu như các người thì làm sao nói điều tốt
được? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12:34). Hoặc lần khác, Ngài nói:
“Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?”
(Mt 23:33).
Nói về “dấu lạ” ở những người
có lòng tin khi trừ quỷ nhân danh Ngài, Đức Kitô cho biết: “Họ sẽ cầm được rắn,
và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những
người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:18).
Khi đám đông lũ lượt kéo đến
xin được làm phép rửa, ông Gioan nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho
các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Lc 3:7).
Nhóm Mười Hai hớn hở báo cáo
với Sư Phụ về việc ma quỷ chạy cụp đuôi khi nghe nói đến tên Giêsu, Đức Kitô
nói với họ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và
mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10:19). Nhưng Ngài
nói thêm: “Chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên
anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20).
Cuối cùng, Đức Kitô nói về
chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ
phải được giương cao như vậy” (Ga 3:14).
Ngài nói về việc Ngài chịu chết
nhục nhã trên Thập giá vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta. Đó là
Giờ Cứu Độ, là thời điểm giọt Máu và giọt Nước cuối cùng chảy ra từ Thánh Tâm
Chúa Giêsu, và đó cũng là Giờ Thương Xót. Chính giây phút đó, Đức Kitô đã chứng
minh Lòng Chúa Thương Xót là tha thứ mọi tội ác và mọi hình phạt đời sau cho
tên cướp Dismas: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43).
Dù tội lỗi ngập đầu, thế mà
Dismas (người trôm lành) đã được trắng án và là người đầu tiên được vào Nước
Trời, dù trước đó Dimas chỉ nói một lời cầu xin đơn giản: “Ông Giêsu ơi, khi
ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42).
Năm mới, chúng ta phải canh tân
thành con người mới, ai cũng phải không ngừng cố gắng sống khôn ngoan như con
rắn nhưng không được sống xảo quyệt như nó, nhất là phải tái quyết tâm: “Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”.
Bí quyết canh tân là thực hiện
lời Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt
5:48). Canh tân bản thân để không chỉ ích lợi cho bản thân và gia đình, mà còn
ích lợi cho xã hội, cho tổ quốc, và cho Giáo hội.
Theo TRẦM THIÊN THU
Conggiao.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét